Danh mục Dịch vụ
Trang chủ
Giới thiệu
Tầm nhìn chiến lược
Tin tức - Sự kiện
Sản phẩm & Dịch vụ
Khách hàng Cá Nhân
Khách hàng Doanh Nghiệp
Chương trình khuyến mãi
Biểu phí dịch vụ
Biểu mẫu - Tài liệu
Tuyển dụng
Hỏi - Đáp
Liên hệ - Góp ý

Sản phẩm tiền gửi

Tiết kiệm rút gốc linh hoạt

Tiết kiệm rút gốc linh hoạt

Tiết kiệm rút gốc linh hoạt là hình thức gửi tiền tiết kiệm có kỳ hạn cho phép Khách hàng có thể chủ động rút gốc nhiều lần khi có nhu cầu sử dụng mà vẫn được hưởng lãi suất theo thời gian thực gửi cho phần gốc rút trước hạn, đồng thời, bảo đảm phần gốc còn lại được hưởng lãi suất như ban đầu ghi trên Sổ tiết kiệm. · Tiện ích - Rút gốc bất cứ khi...

Tiết kiệm trả lãi cuối kỳ

Tiết kiệm trả lãi cuối kỳ

Tiết kiệm trả lãi cuối kỳ là hình thức gửi tiết kiệm có kỳ hạn mà người gửi cam kết gửi tiền trong một khoảng thời gian nhất định và được hưởng lãi suất ứng với kỳ hạn mà Khách hàng đã lựa chọn theo quy định. · Tiện ích: - Nhiều kỳ hạn đa dạng, lãi suất hấp dẫn và thủ tục đơn giản. - Khách hàng có thể gửi tiền hoặc rút tiền tại tất cả các điểm gi...

Tiết kiệm trả lãi đầu kỳ

Tiết kiệm trả lãi đầu kỳ

Tiết kiệm trả lãi đầu kỳ là hình thức gửi tiết kiệm có kỳ hạn, cho phép khách hàng được nhận đầy đủ lãi ngay tại thời điểm gửi tiền tiết kiệm. · Tiện ích: - Được nhận lãi ngay tại thời điểm gửi tiền - Có thể giao dịch gửi/rút tiền tiết kiệm tại tất cả các điểm giao dịch của HMF - Được quyền cầm cố, thế chấp sổ tiết kiệm để vay vốn. - Được ủy quyề...

Tiết kiệm ưu đãi lãi suất tặng 0,2%/năm

Tiết kiệm ưu đãi lãi suất tặng 0,2%/năm

Đối tượng áp dụng: Cá nhân người Việt Nam từ 18 tuổi trở lên; đáp ứng đủ các yêu cầu để trở thành là  thành viên của Quỹ. Đặc điểm:

Tiền gửi tiết kiệm bằng Đồng Việt Nam

Tiền gửi tiết kiệm bằng Đồng Việt Nam

Tiện ích sản phẩm:   Quý Khách có thể rút vốn trước hạn. Trước ngày đến hạn, Quý Khách có thể yêu cầu HMF chuyển sang kỳ hạn mới khác với kỳ hạn gửi ban đầu. Đảm bảo vay vốn hay bảo lãnh cho người thứ ba vay vốn tại HMF. Dùng để xác nhận khả năng tài chính cho Quý Khách hoặc thân nhân đi du lịch, học tập, … ở...

Sản phẩm tiền gửi “Tiết kiệm lĩnh lãi định kỳ - sinh lời định kỳ”

Sản phẩm tiền gửi “Tiết kiệm lĩnh lãi định kỳ - sinh lời định kỳ”

Từ ngày 12/12 Quỹ TDND Hoàng Mai triển khai Sản phẩm “Tiết kiệm lĩnh lãi định kỳ - sinh lời định kỳ” Nhằm gia tăng tiện ích cho khách hàng cá nhân, giúp khách hàng có thêm nhiều lựa chọn. Từ ngày 12/12/2012 Quỹ tín dụng nhân dân Hoàng Mai triển khai sản phẩm   “Tiết kiệm lĩnh lãi định kỳ - sinh lời định kỳ”, khách hàng được lĩnh lãi định kỳ hàng...

Sản phẩm cho vay

Cho Vay mua nhà ở, nền nhà

Cho Vay mua nhà ở, nền nhà

Cho vay trả góp mua nhà ở, nền nhà là sản phẩm tín dụng hỗ trợ nguồn vốn giúp khách hàng mua được nhà, nền nhà đúng theo mong muốn.

Cho vay cầm cố giấy tờ có giá

Cho vay cầm cố giấy tờ có giá

"Cho vay cầm cố bằng giấy tờ có giá" là sản phẩm tín dụng của Hoàng Mai Fund dành cho quý khách hàng là người sở hữu hợp pháp tài sản cầm cố, đang có nhu cầu vay vốn phục vụ nhu cầu đời sống.

Cho vay bổ sung vốn kinh doanh

Cho vay bổ sung vốn kinh doanh

Vay trung hạn – bổ sung vốn lưu động ngắn hạn là hình thức tài trợ nhu cầu vốn lưu động phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của Quý Khách hàng bằng nguồn vốn vay trung hạn, giúp Quý Khách yên tâm sản xuất kinh doanh với nguồn vốn ổn định.

Cho vay tín chấp dành cho Công chức

Cho vay tín chấp dành cho Công chức

  Đối tượng và điều kiện cho vay công chức (theo nghị định 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 do Chính phủ ban hành) - CBNV sau đây gọi là (Khách hàng) đang công tác tại các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, trường học, bệnh viện trên địa bàn thành phố Hà Nội - Có hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú dài hạn (KT3) trên cùng địa bàn của Quỹ H...

Cho vay du học

Cho vay du học

Cho vay du học là sản phẩm tín dụng dành cho khách hàng cá nhân có nhu cầu hỗ trợ tài chính để làm thủ tục xin xét cấp Visa và/hoặc thanh toán chi phí du học cùng các chi phí phát sinh trong thời gian du học

Cho vay trả góp hỗ trợ kinh doanh

Cho vay trả góp hỗ trợ kinh doanh

Cho vay sản xuất kinh doanh trả góp là sản phẩm tín dụng tài trợ vốn lưu động thường xuyên, giúp khách hàng nhanh chóng tăng nguồn vốn kinh doanh nhưng không phải chịu áp lực trả nợ khi đến hạn.

Liên kết

Quảng cáo

 TeamViewer v3 dùng để Hỗ trợ Từ xa!
Việt Nam vừa thừa, vừa thiếu ngân hàngViệt Nam vừa thừa, vừa thiếu ngân hàng
9.98376084792821057268

Việt Nam vừa thừa, vừa thiếu ngân hàng

Một phụ nữ có thể huy động được hơn 14 tỷ đồng từ 200 người tham gia chơi hụi. Trong khi đó, một tổ chức tín dụng với bộ máy điều hành, quản trị được cấp phép hoạt động lại chỉ có nguồn vốn hơn 3 tỷ đồng. Điều gì đang diễn ra?
Góc nhìn từ Quỹ tín dụng nhân dân
Khen hết lời. Đó là điểm chung của các diễn giả tại các buổi hội thảo có bàn về vấn đề tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011- 2015 đồng loạt diễn ra cuối tháng 10/2015.
Công bằng mà nói, trong ba trụ cột tái cấu trúc nền kinh tế là doanh nghiệp nhà nước, đầu tư công và hệ thống ngân hàng thương mại thì tái cơ cấu hệ thống ngân hàng đang thành công nhất. Nợ xấu giảm, thanh khoản được cải thiện, lãi suất giảm, kỷ cương, kỷ luật trên thị trường được chấn chỉnh…
Lâu nay tái cơ cấu ngân hàng thường chỉ được nhìn vào những vấn đề nổi cộm như nợ xấu, sở hữu chéo, năng lực tài chính và quản trị yếu kém…nhưng thực tế tái cơ cấu các TCTD được tiến hành tổng thể trên các nhóm vấn đề: Các quỹ tín dụng nhân dân (QTDND); các NHTM nhà nước; các NHTM hoạt động bình thường; các TCTD phi ngân hàng (công ty tài chính và cho thuê tài chính); các tổ chức tín dụng vi mô; TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng liên doanh yếu kém. Trong 7 nhóm đối tượng này thì nhóm QTDND lại nhiều nhất, tính về số lượng.
Tính đến thời điểm cuối tháng 8/2015, toàn hệ thống có 1.146 QTDND và ngân hàng hợp tác xã (vốn xuất thân là QTDND Trung ương) tại cả 56 tỉnh, thành phố với hơn 2 triệu thành viên. Một người nông dân có thể không biết Agribank – bạn của nhà nông, nhưng họ lại là thành viên rất tích cực của QTDND xã mình. Đó là thực tế. Thậm chí, ở nhiều nơi người ta thích giao dịch với QTDND hơn là đến ngân hàng – nơi có gì đó “sang chảnh”.
Theo Thông tư số 04/2015/TT-NHNN, QTDND hoạt động trong địa bàn một xã, một phường, một thị trấn và các xã liền kề (nếu được phép); có tối thiểu 30 thành viên (có Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát); vốn góp của thành viên bao gồm vốn góp xác lập tư cách thành viên (tối thiểu là 300.000 đồng) và vốn góp thường niên (100.000 đồng, bắt đầu từ năm 2016). Tổng mức góp vốn tối đa của một thành viên không được vượt quá 10% vốn điều lệ của quỹ tại thời điểm góp vốn.
Theo qui định, QTDND được nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm của thành viên, tổ chức, cá nhân khác bằng đồng Việt Nam. Tổng mức nhận tiền gửi từ thành viên của quỹ tối thiểu bằng 50% tổng mức nhận tiền gửi của quỹ. Hoạt động cho vay của QTDND chủ yếu nhằm mục đích tương trợ giữa các thành viên để thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống của các thành viên quỹ…
Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tổng tài sản của các QTDND hiện vào khoảng trên 75 ngàn tỷ đồng; nguồn vốn hoạt động bình quân là 65,6 tỷ đồng. Tuy nhiên, quy mô vốn hoạt động của một quỹ có thể lên đến hơn 800 tỷ đồng, nhưng có quỹ chỉ hơn 3 tỷ đồng. Song, điểm đáng chú ý là nợ xấu trong hệ thống QTDND rất thấp. Tại thời điểm cuối tháng 8/2015, khi nợ xấu của toàn hệ thống ở mức trên 3% thì của QTDND chưa đến 1%. Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, kết quả kinh doanh của các QTDND có xu hướng cải thiện. Vậy có nên mở rộng mô hình này để giảm thiểu hình thức huy động vốn, góp vốn kiểu chơi hụi?
Không nên đếm số lượng ngân hàng
Chúng tôi không định so sánh hoạt động của QTDND với hụi – một hình thức góp vốn lâu đời đến mức thành thói quen của nhiều người dân. Thực tế là, vào những năm 1988 -1999 đã có hàng trăm QTDND đổ vỡ. Kể cả những năm gần đây, đâu đó vẫn xảy ra những vụ vỡ QTDND. Có khác chăng, nếu trước đây vỡ quỹ là dân mất tiền thì nay việc trả tiền cho dân đã có Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam lo, cho dù mức chi trả tối đa cho mỗi khách hàng chỉ ở mức 50 triệu đồng. Nhưng rõ ràng, nếu quản lý tốt, mô hình hoạt động của QTDND rất phù hợp với số đông người dân khu vực nông thôn, miền núi – những người không có điều kiện hoặc không muốn tiếp cận các dịch vụ gửi, vay tiền từ ngân hàng.
50% Tổng mức nhận tiền gửi từ thành viên của quỹ tín dụng nhân dân tối thiểu bằng 50% tổng mức nhận tiền gửi của quỹ
Quay trở lại vấn đề số lượng ngân hàng. Trong quá trình tái cơ cấu các TCTD, NHNN chủ trương giảm về số lượng, tăng chất lượng. Tính đến thời điểm tháng 10/2015, toàn hệ thống đã giảm được 17 thành viên. Trong đó, giảm nhiều nhất là số các NHTM qua sáp nhập, hợp nhất. Tiếp đến là trào lưu mua lại các công ty tài chính của các NHTM nhằm chuyên nghiệp hóa mảng tín dụng tiêu dùng. Thời hạn cho tái cơ cấu các TCTD là cuối năm nay, nhưng vẫn sẽ có một số NHTM tiếp tục sáp nhập, hợp nhất sau mốc thời gian này.
Trước đây các chuyên gia nhận định: Việt Nam vừa thừa, vừa thiếu ngân hàng. Nay sau hơn 10 năm, nhận định này vẫn không thay đổi. Thực tế là cho dù các sản phẩm tài chính – ngân hàng ngày càng phong phú, hiện đại; chất lượng dịch vụ ngày càng tăng… nhưng tín dụng đen vẫn không ngừng phát triển, hụi (họ) vẫn diễn ra phổ biến, chứa đựng nguy cơ rủi ro, bất ổn và mất trật trự an ninh xã hội cao. Vậy vấn đề nằm ở đâu? Một trong những nguyên nhân có thể là từ cách thức tiếp cận, phục vụ khách hàng của các TCTD chưa đủ sáng tạo, chưa thực hiện đầy đủ những quy định, trách nhiệm của một đơn vị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Theo Đề án tái cơ cấu các TCTD giai đoạn 2011- 2015, ngành ngân hàng đặt mục tiêu có 1-2 ngân hàng tầm khu vực. Không ít ngân hàng đặt ra hướng phát triển là vươn lên tầm khu vực, nhưng hiện chưa có ngân hàng nào khẳng định mình đã đạt được tầm đó. Nếu Cộng đồng Kinh tế ASEAN chính thức hình thành từ tháng 12/2015 thì một hệ thống ngân hàng không biên giới sẽ định hình. Tiếp đó là việc thực thi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), rồi các hiệp định khung AFTA sẽ hối thúc các ngân hàng Việt Nam phải lớn nhanh, lớn mạnh.
Có điểm mà các doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng cần phải lưu ý là nguy cơ thua ngay trên sân nhà khi hội nhập kinh tế sâu, rộng. Xác định cụ thể Việt Nam nên có bao nhiêu ngân hàng là điều không cần thiết. Chúng ta cần những ngân hàng tầm khu vực, nhưng cũng cần những TCTD – nơi mà người dân có thể vay nóng vài trăm ngàn đồng.
Tính đến cuối tháng 8/2015, khi nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng ở mức trên 3% thì của quỹ tín dụng nhân dân chưa đến 1%
 

Tin tức liên quan

THÔNG TƯ 02 - GIẢI PHÁP THIẾT THỰC GỠ KHÓ CHO NGƯỜI DÂN, DOANH NGHIỆP (26/04/2023)

THÔNG TƯ 02 - GIẢI PHÁP THIẾT THỰC GỠ KHÓ CHO NGƯỜI DÂN, DOANH NGHIỆP
Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú đã khẳng định như vậy đối với phóng viên Thời báo Ngân hàng.

Mọi khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng được bảo toàn cả gốc lẫn lãi (14/04/2023)

Mọi khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng được bảo toàn cả gốc lẫn lãi
Những sự việc mất tiền trong ngân hàng gần đây khiến dư luận dấy lên lo ngại về sự an toàn và quy trình giao dịch gửi tiền - rút tiền tại ngân hàng. TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân...

[Cập nhật 31/7]: Toàn cảnh kết quả kinh doanh của các ngân hàng 6 tháng đầu năm 2019 (31/07/2019)

[Cập nhật 31/7]: Toàn cảnh kết quả kinh doanh của các ngân hàng 6 tháng đầu năm 2019

TÓM TẮT QUY ĐỊNH TIỀN GỬI TIẾT KIỆM (29/06/2019)

TÓM TẮT QUY ĐỊNH TIỀN GỬI TIẾT KIỆM
Theo quy định tại Thông tư số: 48/2018/TT-NHNN của Thống đốc NHNN ngày 31/12/2018 Quy định về tiền gửi tiết kiệm.

Đảm bảo ổn định hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (26/09/2018)

Đảm bảo ổn định hệ thống quỹ tín dụng nhân dân
Thông tư 23 được đánh giá là khá đầy đủ, toàn diện nhằm tái cơ cấu hệ thống QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả

“Lướt sóng” tiền ảo và… niềm đau chôn giấu (30/01/2018)

“Lướt sóng” tiền ảo và… niềm đau chôn giấu
Chuỗi ngày đen tối của thị trường tiền ảo (cách gọi quen ở Việt Nam, gọi đúng là tiền kĩ thuật số) thế giới vẫn chưa chấm dứt tính từ ngày 16.1.2018 sau khi sàn giao dịch BitConnect đóng cửa và ng...

Vì sao lãi suất ở Việt Nam lại cao hơn so với các nước khu vực? (18/05/2017)

Vì sao lãi suất ở Việt Nam lại cao hơn so với các nước khu vực?
Thống đốc NHNN cho biết, so sánh số liệu với một số nước trong khu vực như Myanmar, lãi suất cho vay ở mức 13%/năm, Indonesia là 11,9%/năm, Thái Lan là 6,3%/năm, Singapore là 5,4%/năm thì mặt bằng...

NHNN quy định lãi suất cho vay nông nghiệp công nghệ cao thấp hơn từ 0,5 - 1,5%/năm (04/05/2017)

NHNN quy định lãi suất cho vay nông nghiệp công nghệ cao thấp hơn từ 0,5 - 1,5%/năm
NHNN vừa có Quyết định về chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Nghị quyết 30/NQ-CP ngày 7/3/2017 của Chính phủ. ...

"Thông tin truyền miệng từ người thân vẫn là nguồn được khách hàng của ngân hàng tin tưởng nhất" (07/04/2017)

"Thông tin truyền miệng từ người thân vẫn là nguồn được khách hàng của ngân hàng tin tưởng nhất"
Đó là thông tin được Nielsen đưa ra trong kết quả khảo sát mới đây và theo công ty này, các ngân hàng cần truyền thông mạnh mẽ hơn để củng cố sức mạnh thương hiệu. ...

Nâng hệ số CAR: Bài toán hóc búa (13/03/2017)

Nâng hệ số CAR: Bài toán hóc búa
Các NH phải chủ động lựa chọn những giải pháp phù hợp để nâng cao năng lực tài chính.

Trang đang được tải.
Xin vui lòng chờ trong giây lát!